Hán Nôm (漢喃) là những ký tự dựa trên Hán tự được sử dụng tại Việt Nam từ lâu trước đây.
[1] Chữ Hán Nôm có thể được sử dụng để viết
chữ Hán hoặc một hình thức của chữ Việt gọi là
chữ Nôm.
[2][3] Hán Nôm bao gồm cả Hán tự và các ký tự dựa trên những quy luật ghép vần của Trung Quốc, nhưng chỉ dành cho tiếng Việt được gọi là chữ Nôm.Hán văn đã được sử dụng trong các triều đại ở Việt Nam như một ngôn ngữ chính thức. Chữ Nôm được tạo nên từ việc sử dụng các ký tự thông dụng của Hán tự để biểu đạt tiếng Việt. Một chữ trong tiếng Việt có thể được viết bằng một ký tự trong Hán tự do đó nó là một hệ thống chữ tượng hình, trong đó mỗi ký tự chỉ đại diện cho một âm tiết.
[4]Thời
Pháp thuộc, chữ Hán và chữ Nôm dùng để viết tiếng Việt dần bị người Pháp thay thế bằng
chữ Quốc ngữ (
chữ Latinh) để đồng văn tự với
tiếng Pháp, giúp phổ biến tiếng Pháp và
văn hóa Pháp tại Việt Nam. Hiện nay
Việt Nam không yêu cầu học sinh học chữ Hán và chữ Nôm
[3] , nên chỉ còn gần 100 học giả trên toàn thế giới có thể đọc được tiếng Việt chữ Hán Nôm, và phần lớn người Việt Nam bây giờ không thể tự đọc thuần thục văn tự và các tác phẩm văn học do người Việt xưa viết bằng chữ Hán và chữ Nôm mà phải nhờ các bản dịch sang chữ Quốc ngữ, dù đều là tiếng Việt.
[5] Tuy nhiên, thư pháp Hán Nôm vẫn còn phổ biến như một vật để
trang trí nội thất và là
biểu tượng để chúc
may mắn.
Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở
Hà Nội, được thành lập vào năm 1970, thu thập và nghiên cứu các bản thảo viết tay.
[2] Quyển sách Kho chữ Hán Nôm mã hóa bao gồm 20.000 ký tự đã được mã hóa trên máy tính, xuất bản năm 2008.
[6] Đề xuất này đã được trình lên
Unicode.
Sources:
Unihan Database,
Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm, "Code Charts - CJK Ext. E" (N4358-A).
[8] Các bài đọc Hán Việt là
Hán Việt Từ điển.